|
|
[Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne |
|
|
Tác giả |
Thông điệp |
Uchi_Avril
Active Fan
Tổng số bài gửi : 275
Age : 30
Đến từ : .....:::Where i'm belong:::.....
Nghề nghiệp hiện tại : Avril 's FC
Thanked : 0
Points : 18378
Ngày tham gia : 28/07/2007
|
Tiêu đề: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne Mon Jul 30, 2007 4:06 pm |
|
|
I.Prolife của Avril Lavinge1. Giới Thiệu ChungTên đầy đủ: Avril Ramona Lavigne Tuổi: 23 Birthday: 27/9/1984 Nơi Avril chào đời: Belleville, Ontario, Canada Hometown: Napanee, Ontario, Canada Màu mắt: Blue-green Màu tóc: vàng hoe Chiều cao: 5'2 Cân nặng: 103 lbs Size giày: 7 Khuyên tai: Có 2 lỗ bên tai trái, một bên tai fải và một ở "rốn"... Hình xăm: Let go star trên cổ tay trái, "A D" in a heart trên cổ tay fải, tiny star ở bắp chân trái 2. FamilyBrother: Matt Lavigne (23) Sister: Michelle Lavigne (1 Mum: Judy Lavigne Dad: John Lavigne Con vật kưng: Sam a miniature Shnauzer Husband: Deryck Whibley trong nhóm Rock Sum41 3. FavouritesFavorite Holiday: Christmas Favorite Animal: Koala (gấu túi) Favorite Game: Uno Fave food: Pizza from La Pizzeria in Napanee and smoothies Fave candy: Pixi Stix, Sour Keys Fave sodas: Coke, grape and root beer Fave colours: Red and black Fave style of music: Rock Fave bands: Sum 41, Green Day, The Used, Nirvana and lots of others Fave letters: A and S Fave sports: khúc côn cầu , bóng đá và bóng rổ Fave clothes: Dickies and Kitschy tees Fave shoes: Osiris and Converse Fave song from Let Go: Losing Grip Fave song from Under My Skin: Take Me Away and Together 4. Other Facts- Avril được Chantal Kreviatzuk tặng một chiếc túi hãng Louie Vuitton - Avril thích mút ngón chân - Avril thường đi săn với brother khi còn bé - Avril đã có thể là một mật thám khi chưa nổi tiếng - Avril thuộc tín đồ cơ đốc giáo - Avril đã dành chiến thắng trong cuộc thi radio và đã được bước lên sân khấu hát cùng Shania Twain. - Avril lần đâu tiên hát solo là ở nhà thờ khi mới 10 tuổi, đó là ca khúc "Near the Heart of God". - Avril đã từng làm việc ở Mary Brown's Chicken. - Avril đã từng fải lòng anh chàng Tom trong Blink 182 - Michelle Lavigne (em gái) đã xuất hiện trong video Sk8er Boi đấy. - Avril bắt đầu chơi skateboard từ năm 10tuổi - Avril là thành viên của đội hockey năm 12 tuổi . - Avril có được hợp đồng ghi đĩa đầu tiên năm 16 tuổi - Mỗi khi thấy chán sis nhà ta thik đọc sách hoặc khò khò.. - Avril thik chơi video games. - Avril dị ứng với bọn ong đấy. - Avril ko thể đồ ăn có nhiều gia vị, vì nó làm Avril bị ợ chua. - Avril kết hôn với Deryck Whibley vào ngày 15/7/2006 và đã tổ chức một buổi lễ đậm tính truyền thống tại California From Avril's blogII. Tóm tắt sự nghiệp của Avril LavingeSinh ra ở Belleville, Ontario trong 1 gia đình bảo thủ theo đạo Franco-Ontarian Catholic (bố mẹ cô là John và Judy Lavigne), Lavigne đã lớn lên ở Napanee, hát nhạc country và tham gia ca đoàn nhà thờ, đồng thời tự học chơi guitar. Phiên âm tên thuờng đuợc gọi của cô theo kiểu Ănglê là /ˈævrəl ləˈviːn/ dù nó có nguồn gốc từ Pháp. Cô đuợc khám phá bởi quản lý chuyên nghiệp đầu tiên của cô lúc đang hát những bài nhạc country covers tại 1 nhà sách thuộc nhà thờ ở Kingston, Ontario. Khi đuợc 16 tuổi, cô đuợc ký hợp đồng với hãng dĩa Arista Records thông qua đại diện A&R Ken Krongard, nguời đã mời sếp L.A. Reid lắng nghe cô hát tại 1 studio ở New York. Và kể từ đó cô bắt đầu thu âm và cả 2 albums cho đến hiện nay đều đã đứng đầu các bảng xếp hạng trên toàn thế giới. Phong Cách Âm NhạcTrên trang thông tin MySpace của mình, Avril khẳng định rằng thể loại âm nhạc của cô ấy là Pop/Punk/Rock. Nhưng tạp chí All Music Guide và một số nhà phê bình khác cho rằng phong cách âm nhạc của cô ấy là: "Punk, Punk-pop, Pop/Rock, Alternative Rock, Alternative Pop-Rock, Modern Rock và Post-Grunge". Tuy nhiên Avril thường phát biểu rằng cô không phải là một ca sĩ hát nhạc Punk và cô cũng không muốn bị ràng buộc như vậy. Lavigne đã tỏ thái độ tức giận khi có người xem cô như một "Sk8er Punk". Quê hương của Avril là nơi khởi nguồn của nhiều ban nhóm hát nhạc punk (chẳng hạn như Sid Vicious), nhưng âm nhạc của cô ấy chỉ chịu ảnh hưởng một phần của thể loại punk năm 1970.
Được sửa bởi vit_quay_9x ngày Fri Jul 10, 2009 1:17 am; sửa lần 4. (Reason for editing : yummy edit)
|
|
|
|
vit_quay_9x
Mod
Tổng số bài gửi : 233
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp hiện tại : Student
Tâm trạng : Cười tít mắt :D
Thú cưng :
Thanked : 8
Points : 17198
Ngày tham gia : 14/04/2009
|
Tiêu đề: Re: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne Fri Jul 10, 2009 12:39 am |
|
|
Let Go — Buớc đột phá trong sự nghiệpSự thật là, những cố gắng đồng sáng tác ca khúc lúc đầu đã không làm cô vừa ý, và rốt cục là cô đã phải dời về Los Angeles, California và cùng sáng tác album của cô với Clif Magness và đội viết nhạc The Matrix, những nguời đã từng viết nhiều bài hát truớc đó cho Sheena Easton và Christina Aguilera. Album đầu tay của cô, Let Go, đã đuợc phát hành bởi Arista vào ngày 4 tháng 6, 2002, và đuợc công nhận "Quadruple Platinum" (4 bạch kim) bởi Hiệp Hội Công Nghệ Ghi Âm Hoa Kỳ khi chưa đến 6 tháng tung ra. Cô đuợc nhận giải "Best New Artist" tại 2002 MTV Video Music Awards và tại giải 2003 Juno Awards, nơi mà cô có đuợc đến 6 đề cử, đã quay về với 4 Junos trong tay. Cô cũng đã đuợc đề cử 8 Grammys nhưng cho đến nay vẫn chưa thắng 1 giải nào cả. Cho đến tháng 12, 2004, Let Go đã bán đuợc 15 triệu bản và đạt đuợc hạng 1 ở Úc, Canada, và Anh Quốc (Tại thời điểm đó, Lavigne là nghệ sĩ solo nữ trẻ tuổi nhất từng giành đc #1 album ở bảng xếp hạng UK, tuy nhiên kỷ lục đó bây giờ đuợc giữ bởi Joss Stone). Let Go đã leo đến vị trí cao nhất là #2 tại Mỹ. Có ý kiến cho rằng cô là ca sĩ Canada trẻ tuổi nhất từng bán đuợc hàng triệu dĩa tại quê nhà; tuy nhiên thực ra kỷ lục ấy thuộc về ca sĩ quê Ottawa, Paul Anka. Single của anh, "Diana", đã đuợc ghi âm khi anh chỉ mới 16, và vẫn là single bán chạy nhất trong lịch sử Canada. Let Go là album sản xuất ra 4 hit singles (3 bài đầu tiên là cộng tác vớithe Matrix), tại nhiều nuớc trên thế giới: * " Complicated" đã tiến đến #1 trên U.S. adult charts và Úc, cùng với #2 trên Billboard Hot 100; * " Sk8er Boi" lọt vào top ten tại Mỹ và Úc và đạt #1 ở Canada; * " I'm with You" vuơn đến #1 ở các bảng xếp hạng adult charts của Mỹ và thế giới (đuợc tính dựa trên số liệu của Mỹ, Anh, Canada, Đức, Pháp, và Úc), và hạng 4 tại Billboard Hot 100; * " Losing Grip" leo lên #2 ở Canada, hạng 10 ở Đài Loan, #20 ở Chile, và top fifty của bảng xếp hạng Âu châu tổng hợp. "Weird Al" Yankovic từng làm 1 bài hát chế từ "Complicated" trong album Poodle Hat của ông với tựa đề "A Complicated Song" — 1 dấu hiệu rõ về sự dấu ấn của cô trong văn hoá đuơng đại. Giới truyền thông vẫn thuờng so sánh cô với Alanis Morissette, mặc dù cô bị phê bình là không viết đuợc những ca từ mạnh mẽ như Morissette lúc ở cùng trang lứa. Cô cũng thuờng đuợc so sánh với những ca sĩ như Vanessa Carlton và Michelle Branch, những nguời đã khởi nghiệp gần với cô và cùng với Lavigne, đuợc giới nghe nhạc ca tụng như là 1 phần của xu huớng mới, thành khẩn và nguyên chất hơn là chất nhạc pop trống rỗng và giả tạo truớc đó. Mặc dù đuợc tiếp thị với 1 hình ảnh rất sành điệu, như là đối thủ của Britney Spearshay 1 vài nguời khác, tuy nhiên 1 số nguời đã tìm đuợc lý lịch thật của cô, và tính cách của cô thì ko giống như những gì mà nguời ta đã 'market' về cô tí nào cả; dạng như 1 cô gái 16 tuổi ngây thơ và mong muốn đuợc mua CD Ramones đầu tiên của mình. Trong 1 cuộc phỏng vấn khác, cô đã liệt kê gu nhạc của mình, bao gồm Blink 182, Sum 41, và System of a Down. Lavigne hiện nay đã đính hôn với Deryck Whibley của Sum 41 và thuê cựu thành viên của nhóm Mark Spicoluk làm 1 thành viên trong band của cô. Cô tự miêu tả album đầu tay của mình là 1 pop album với "1 vài bài nhạc rock bên trong", và nói đến mong muốn sẽ viết thêm nhiều bài xu huớng rock hơn trong tuơng lai. * 2002: Let Go — #1 CAN; #1 U.S.; #1 UK; #1 AUS; #1 MEX — Worldwide sales: 15 triệu, United States sales: 6.4 triệu RIAA Certification: 6x Platinum (6,000,000 Units) CRIA Certification:10x Platinum (1,000,000 Units) ARIA Certification: 7x Platinum (4,900,000 Units) o 2002: "Complicated"#1 CAN (3 weeks); #2 U.S.; #3 UK; #1 AUS (4 weeks); #1 MEX (5 weeks) o 2002: "Sk8er Boi"
#1 CAN (3 weeks); #10 U.S.; #8 UK; #3 AUS; #5 MEX o 2002: "I'm With You"#1 CAN (2 weeks); #4 U.S.; #7 UK; #1 MEX (3 weeks) o 2003: "Losing Grip"#1 CAN (2 weeks); #64 U.S.; #22 UK; #20 AUS; #14 MEX o 2003: "Mobile"Australian radio release only Awards And NominationsLet Go2002MTV Music Video AwardNew Artist in a Video for Complicated – Won. [1] MTV Music Video Award LatinBest International New Artist – Won. [2] World Music AwardsBest Canadian Pop/Rock Artist – Won.[3] Grammy AwardsSong of the Year: Complicated – Nominated. Best Female Pop Vocal Performance: Complicated – Nominated. Best Pop Vocal Album: Let Go – Nominated. Best Rock Vocal Performance - Female: Sk8er Boi – Nominated. Best New Artist – Nominated. 2003Juno AwardsBest Single: Complicated – Won. Best New Artist – Won. Best Pop Album: Let Go – Won. Best Album of the Year: Let Go – Won.[5] Grammy AwardsBest Female Pop Vocal Performance – Nominated. Song of the Year - Songwriter: I'm With You (with The Matrix) – Nominated. Best Rock Vocal Performance Female: Losing Grip – Nominated. American Music AwardsFavorite Pop/Rock Female Artist – Nominated. Robbey translate from wikipedia. All materials are copyrighted. Please do not use without permission
Được sửa bởi vit_quay_9x ngày Fri Jul 10, 2009 1:15 am; sửa lần 2.
|
|
|
|
vit_quay_9x
Mod
Tổng số bài gửi : 233
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp hiện tại : Student
Tâm trạng : Cười tít mắt :D
Thú cưng :
Thanked : 8
Points : 17198
Ngày tham gia : 14/04/2009
|
Tiêu đề: Re: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne Fri Jul 10, 2009 12:47 am |
|
|
Under My SkinAvril viết đa số các bài hát trong album thứ 2 của mình, Under My Skin, cùng với ca sĩ tực sáng tác nguời Canada khác, Chantal Kreviazuk. Cô cũng đồng sáng tác track "Nobody's Home" với Ben Moody, cựu thành viên của Evanescence, và những bài còn lại với tay guitar chính truớc đó của cô, Evan Taubenfeld. Lavigne sử dụng 3 nguời sản xuất cho Under My Skin: Butch Walker của Marvelous 3, Raine Maida của Our Lady Peace (đồng thời là chồng của Kreviazuk), và Don Gilmore, nguời đã từng sản xuất nhạc cho Good Charlotte và Linkin Park. Under My Skin đuợc phát hành vào ngày 25 tháng 5, 2004 và tiến thẳng vào vị trí đầu bảng nhiều nơi trên thế giới, đáng chú ý là ở Anh, Mỹ, Canada, và Úc, cùng với Billboard Internet charts. Single đầu tay, " Don't Tell Me", đã đuợc phát hành sớm vào tháng 4, 2004, và đã đạt #1 ở Argentina, top 5 ở Anh và Canada, và top 10 ở Úc, Brazil, và bảng xếp hạng Châu Âu. Single thứ 2, " My Happy Ending", leo đến #9 ở Billboard Hot 100, trở thành hit lớn thứ 3 của cô cho đến hiện nay. Cô quay video này tại khu hàng xóm của diễn viên/ca sĩ Eric West. Single thứ 3, " Nobody's Home", chỉ có thể tiến đến #41 của Billboard Hot 100, tuy nhiên do sự chấp nhận của fans và thính giả nói chung, nó có thể đuợc coi là 1 hit. Single #4 của Under My Skin, " He Wasn't", đạt quán quân tại Canada, và bài hát trở thành #1 thứ 8 của cô tại đây kể từ single "Complicated". Tuy nhiên, single này lại rất yếu ở Anh khi nó chỉ đạt đến #23. Bài hát không đuợc phát hành tại Mỹ. Lavigne đã chiến thắng World Music Award vào năm 2004 cho nghệ sĩ pop/rock đuợc yêu thích nhất, và 1 lần nữa dẫn đầu đề cử 2005 Juno Awards (5 đề cử), nhận đuợc 3 giải, cộng với 4 năm truớc đó là 7 Junos cho đến nay. * 2004: Under My Skin — #1 CAN; #1 U.S.; #1 UK; #1 AUS; #1 MEX — Worldwide sales: 9 triệu, United States sales: hơn 3 triệu RIAA Certification: 3x Platinum (3,000,000 Units) CRIA Certification: 3x Platinum (300,000 Units) RIAJ Certification: 4x Platinum (1,000,000 Units) o 2004: "Don't Tell Me"#1 CAN (1 week); #22 U.S.; #5 UK; #10 AUS; #4 MEX o 2004: "My Happy Ending"#1 CAN (2 weeks); #9 U.S.; #5 UK; #6 AUS; #1 MEX (2 weeks) o 2004: "Nobody's Home"#1 CAN (2 weeks); #41 U.S.; #24 UK; #24 AUS; #4 MEX o 2005: "He Wasn't"
#1 CAN (1 week); #23 UK; #24 MEX o 2005: "Fall to Pieces"North American radio release only o 2005: "Take Me Away"
Australian radio release only Robbey translate from wikipedia. All materials are copyrighted. Please do not use without permissionAwards And Nominations Under My Skin2004World Music AwardsBest Pop/Rock Artist – Won. World's Best Selling Canadian Artist – Won.[8] MTV Video Music Awards Latin AmericaBest International Pop Artist – Won. Nickelodeon Kids' Choice AwardsFavourite Female Singer – Won MTV Video Music AwardsBest Pop Video: Don't Tell Me – Nominated American Music AwardsFavorite Pop/Rock Female Artist – Nominated Juno AwardsMusic DVD of the Year – Nominated. Juno Fan Choice Award – Nominated. 2005Juno AwardsArtist of the Year – Won. Pop Album of the Year: Under My Skin – Won. Fan's Choice Award – Won. Songwriter of the Year – Nominated. Album of the Year – Nominated.
Được sửa bởi vit_quay_9x ngày Fri Jul 10, 2009 1:12 am; sửa lần 2.
|
|
|
|
vit_quay_9x
Mod
Tổng số bài gửi : 233
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp hiện tại : Student
Tâm trạng : Cười tít mắt :D
Thú cưng :
Thanked : 8
Points : 17198
Ngày tham gia : 14/04/2009
|
Tiêu đề: Re: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne Fri Jul 10, 2009 12:50 am |
|
|
The Best Damn ThingThe Best Damn Thing là album thứ 3 của Avril Lavigne. Album này được phát hành vào 17 tháng 4 năm 2007 tại Bắc Mỹ và châu Âu, ngày 14 tháng 4 năm 2007 tại Anh và Úc. Trong tuần phát hành đầu tiên The Best Damn Thingđã bán được gần 781.000 bản trên toàn cầu, đạt quán quân 2 tuần liên tiếp trên US Billboard Hot 200 album của Mĩ và ở nhiều quốc gia khác. Album này đã được trao tặng 1 đĩa bạch kim tại Mĩ, 2 đĩa bạch kim của United World Chart... Tính đến cuối tháng 10 năm 2008 album đã bán được 6 triệu bản trên toàn thế giới. Các ca khúc trong The Best Damn Thing đều là những sáng tác của Avril cùng nhà sản xuất Dr. Luke. Avril đã tạo ra một phong cách hoàn toàn mới trong album thứ ba này: vui nhộn, nhanh, trẻ trung, quyến rũ vừa không kém phần mạnh mẽ. "Gilfriend'" là đĩa đơn đầu tiên và cũng là đĩa đơn thành công nhất trong sự nghiệp của Avril khi vươn tới vị trí quán quân và nằm trên top 10 của US Billboard Hot 100 trong suốt 18 tuần liền. Đĩa đơn này cũng dành được vị trí đẫn đầu trên các bảng xếp hạng ở Úc, Canada, Nhật Bản... Và vị trí thứ 2 trên Uk Single Chart. Đĩa đơn thứ hai là "When You're Gone",đây là một bản Pop/balad rất nhẹ nhàng và tình cảm. When You're Gone rất thành công ở Anh, Canada, Úc, Nhật Bản...khi đều lọt vào top 10 trên các bảng xếp hạng ở đây, tuy nhiên nó chỉ có thể leo lên vị trí 24 trên US Billboard Hot 100 của Mĩ . Đĩa đơn thứ ba là "Hot", đĩa đơn này khá thành công ở Canada và Úc nhưng lại thất bại ở thị trường Mĩ và Châu Âu. Tháng 4 năm 2008, Avril tiếp tục cho ra đĩa đơn thứ 4 mang tên The Best Damn Thing, một ca khúc pop/punk sôi dộng và mang hơi hướng của Girlfriend. "Innocence" là single thứ 5 và cuối cùng của The Best Damn Thing, được viết bởi Lavigne và Evan Taubenfeld. Nó được phát hành duy nhất ở Italia. Mặc dù vậy trên Canadian Hot 100 "Innocence" vẫn đạt vị trí #59, #11 ở Ukraine Singles Chart, và #16 U.S. Billboard Bubbling Under Hot 100 . "Innocence" cũng là single thứ ba của Avril không có video clip sau Take Me Away và Fall To PiecesMặc dù một số fans trung thành không chấp nhận sự thay đổi hình ảnh của Avril trong album nhưng đây có thể được xem là album thành công cả về giải thưởng và thương mại. Thành tích của The Best Damn ThingAustralian ARIA Albums Chart #2 Austrian Albums Chart #1 Belgium Albums Top 50 #9 Canadian Albums Chart #1 Denmark Albums Top 40 #5 Dutch Albums Top 100 #8 Finland Albums Top 40 #8 France Albums Top 150 #3 Germany Albums Top 100 #1 Greek IFPI Albums Chart #1 Irish Albums Chart #1 Italian Albums Chart #1 Japanese Oricon Albums Chart #1 Mexican Top 100 Albums Chart #3 Mexican Top 20 International Albums Chart #1 Netherlands Albums Chart #1 New Zealand Albums Top 40 #2 Norway Albums Top 40 #18 Portugal Albums Top 30 #9 Spain Albums Chart #2 Sweden Albums Top 60 #6 Switzerland Hit parade Top 100 Album #1 UK Albums Chart #1 U.S. Billboard 200 #1 vị trí cao nhất tại các bảng xếp hạng singleGirlfriendArgentinian Singles Chart #2 Australian ARIA Singles Chart #1 Ö3 Austria Top 40 #1 Bulgarian Top #1 Brazil Hot 100 #2 Canadian BDS Airplay Chart #3 Canadian Hot 100 Singles Chart #1 Chile Top 100 Airplay Chart #4 Croatian Hot 50 #1 Czech Singles Chart #4 Dutch Tipparade #1 European Singles Chart #1 French Singles Chart #2 German Singles Chart #3 Brazilian Hot 100 Singles & Tracks #2 Irish Singles Chart #1 Israeli Singles Chart #1 Italian Singles Chart #1 Ibero-America Singles Chart #2 Latin American Airplay Chart #2 Mexican Top 100 Singles Chart #2 New Zealand RIANZ Singles Chart #1 Peruvian Top 100 Singles Chart #2 Polish National Top 50 #1 Los 40 Principales Spain #8 Swedish Singles Chart #1 UK Singles Chart #2 U.S. Billboard Hot 100 #1 U.S. Billboard Pop 100 #1 Venezuelan Singles Chart #1 When You're GoneArgentinian Singles Chart #1 Australian ARIA Singles Chart #4 Austrian Singles Chart #10 Belgian Ultratop 50 (Flanders) #36 Canadian Hot 100 #8 Chilean Singles Chart #3 Czech Airplay Chart #3 Danish Single Chart #13 Finland Top 20 Chart #10 Germany Singles Top 100 #17 Irish Singles Chart #4 Italian Singles Chart #4 México Top 100 Single Chart #65 New Zealand Top 40 #26 Paraguay Singles Chart #4 Portugal Singles Top 50 #1 Russian Airplay Top 100 #62 Spain Singles Chart #11 Sweden Official Chart #8 UK Singles Chart #3 U.S. Billboard Hot 100 #24 U.S. Billboard Pop 100 #16 U.S. Billboard Hot Digital Songs #17 Venezuelan Singles Chart #2 HotAustralian ARIA Singles Chart #14 Austrian Singles Chart #17 Canadian Hot 100 #10 Chilean Singles Chart #33 Dutch Tipparade #15 Germany Singles Top 100 #26 Irish Singles Chart #19 Israeli Singles Chart #3 México Top 100 #32 New Zealand RIANZ Singles Chart #30 Peruvian Singles Chart #86 Russian Airplay Top 100 #40 Sweden Singles Chart #53 Switzerland Singles Chart #61 Turkish Top 20 Chart #8 UK Singles Chart #30 U.S Billboard Hot 100 #95 U.S Billboard Pop 100 #64 The Best Damn ThingArgentinian Singles Chart #10 Austrian Singles Chart #51 Canadian Hot 100 #76 Czech Republic Airplay #84 German Top 100 #64 U.S. Billboard Bubbling Under Hot 100 Singles #7 U.S. Billboard Pop 100 #91 Innocence(Italia radio release only) Canadian Hot 100 #59 Ukraine Singles Chart #11 U.S. Billboard Bubbling Under Hot 100 #16
Được sửa bởi vit_quay_9x ngày Thu Oct 15, 2009 6:47 pm; sửa lần 4.
|
|
|
|
vit_quay_9x
Mod
Tổng số bài gửi : 233
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp hiện tại : Student
Tâm trạng : Cười tít mắt :D
Thú cưng :
Thanked : 8
Points : 17198
Ngày tham gia : 14/04/2009
|
Tiêu đề: Re: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne Fri Jul 10, 2009 12:52 am |
|
|
Personal life and trivia * Lavigne đã trở thành nạn nhân của chuơng trình Punk'd khi Ashton Kutcher và đồng hành của cô làm cô tin rằng mình đã phá hỏng xe hơi và xe gắn máy. * Lavigne có hình ngôi sao xăm ở bề mặt trong của cổ tay trái, và bạn đồng nghiệp của cô là Ben Moody cũng có 1 cái hệt như thế. Cuối năm 2004, cô đã xăm 1 hình trái tim màu hồng có chữ 'D' ở cổ tay phải — đuợc cho rằng ngụ ý nói đến bạn trai Deryck Whibley. * Cô đã công nhận với Rollingstone.com là cô đã từng tham gia đánh nhau. "Vào đêm kia, tôi đã tham gia 3 cuộc đánh nhau", Lavigne nói. "Tôi đang ở trong club và cô gái kia cứ luờm tôi. Cô ta cố tình đẩy tôi và thế là tôi cho cô ấy đo sàn. Bảo vệ đến, và tôi đang thắng thế, vậy là họ ném tôi ra ngoài." * Lavigne đã từng lưu diễn với 1 cái túi rất nhiều cà vạt. 1 vài trong số đó cô ấy mua, nhưng những cái còn lại là lấy từ bố cô. * Lavigne ngưng ko mang cà vạt nữa vào năm 2003, bởi vì cô hoảng sợ rằng truyền thông bấy giờ đang chú ý đến chúng hơn âm nhạc của cô và cô đã tạo cái xu huớng thời trang ấy trong cộng đồng fans của cô. * Avril Lavigne đã phá kỷ lục bởi Madonna. Bài hát "Complicated" của cô tại hạng 1 trên the Contemporary Hit Radio chart (đuợc tính cho air play trên radio) suốt 11 tuần liên tiếp. Madonna truớc đó đã đạt kỷ lục cho "Music", với hạng 1 10 tuần. * Cái quần mà Lavigne mặc trong "Complicated" là giống cái cô mặc trong video "Losing Grip". * Xu huớng thời trang "skater chick" của cô đuợc bắt chuớc nhiều nhất vào năm 2002. * Vào tháng 3, 2004, cô đã dính vào 1 cuộc chiến các vì sao với Hilary Duff: Duff đã chỉ trích Lavigne sau khi Avril có vẻ nổi giận khi fans ăn mặc giống cô ta. Duff gọi cô là "tinh thần kém" và nói: "Lẽ ra bạn nên hạnh phúc khi họ mến bạn và nguỡng mộ bạn." Trong 1 buổi phỏng vấn cho đài phát thanh Boston, Lavigne đã gọi Duff là "bám váy mẹ" và "giả bộ ngoan hiền". Sau đó cô ta nói với Duff (ko có mặt trong interview ấy), "You can go screw yourself" (Cô tự đi ấy mình đi lol). Trong 1 lần khác, Lavigne cũng nói về Duff như sau, "Tôi chắc rằng cô ta rất tốt và ngọt ngào. Tôi chắc rằng lúc nào cô ấy cũng cuời tuơi." Tại cùng buổi phỏng vấn ấy, cô đã thấy 1 bức ảnh của chính mình và xé rách nó, dị ứng nói, "I hate that fucking photo!" Và tất cả những điều này đều đuợc phát sóng. * "Complicated" là 1 trong những singles bán chạy nhất tại Canada vào năm 2002. * Lavigne đã từng lọt vào FHM 100 Sexiest Women in the World 2003, 2004, và 2005. * Vào năm 2003, có tin rằng Lavigne đã hẹn hò với band member Jesse Colburn. * "Nobody's Home" là video yêu thích nhất của Lavigne cho đến nay. * Hiện nay cô đã đính hôn với Deryck Whibley trong pop punk band Sum 41. Cô cũng đã mua 1 căn nhà với anh ở Beverly Hills. Whibley gần đây đã nói rằng anh sẽ kết hôn với Lavigne; tin tức gần đây cũng cho biết cả 2 sẽ dời về Toronto, Canada, để cả 2 đuợc gần gũi nhau hơn. * Tên thân mật của cô là Avie. * Cũng như những nghệ sĩ nữ trẻ khác, Lavigne từng xuất hiện trên nhiều bìa tạp chí. * Cô từng thú nhận chưa từng nghe qua Sex Pistols (ban nhạc punk rock đại thụ) bao giờ cả. * "Đừng mong đợi album mới phát hành sớm. Tôi sẽ đi tour, từ tốn với thời gian, ở bên cạnh nguời yêu của tôi và sống tốt — sau đó mới trở lại làm việc." (nói về việc nghỉ ngơi trong phone interview với Newsday). * Avril lần cuối xuất hiện, với 1 hình tuợng mới, trong chuơng trình Jay Leno vào ngày 31 tháng 8, 2005. Cô đã trình diễn "He Wasn't". Sự Nghiệp Điện ẢnhNăm 2006 Avril được mời lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình "Over The Hedge", với cốt truyện được xây dựng từ một bộ truyện tranh nổi tiếng cùng tên. Trong phim này Avril đã tham gia làm việc với nhiều diễn viên nổi tiếng như: William Shatner, Bruce Willis, Garry Shandling, Wanda Sykes, Nick Nolte và Steve Carell. Năm 2007, Avril được diễn xuất cùng với Richard Gere trong bộ phim "The Flock", cô vào vai người bạn gái của một tên tội phạm khả nghi. Và dự án điện ảnh thứ ba của Avril là vào vai chính trong "Fast Food Nation", bộ phim có kịch bản dựa trên một cuốn truyện yêu thích của cô ấy. Lavigne đã sáng tác và ghi âm "Keep Holding On", bài hát đuợc chọn làm nhạc nền cho bộ phim "Eragon", ca khúc này cũng được phát hành dưới dạng đĩa đơn và xuất hiện trong album "The Best Damn Thing". Ngoài ra Avril còn xuất hiện trong phần giữa của bộ phim truyền hình dài tập "Sabrina, the Teenage Witch", một bộ phim rất được giới trẻ thế giới yêu thích, trong phim này Avril đã xuất hiện tổng cộng 149 lần và trình diễn ca khúc "Sk8er Boi" cùng với các thành viên trong ban nhạc của mình. Robbey translate from wikipedia. All materials are copyrighted. Please do not use without permission
|
|
|
|
vit_quay_9x
Mod
Tổng số bài gửi : 233
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Nghề nghiệp hiện tại : Student
Tâm trạng : Cười tít mắt :D
Thú cưng :
Thanked : 8
Points : 17198
Ngày tham gia : 14/04/2009
|
Tiêu đề: Re: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne Wed Aug 12, 2009 9:46 am |
|
|
Abbey DawnThương hiệu rock-chic của Avril Lavigne Avril Lavigne đã hợp tác với hãngthời trang Kohl’s để cho ra đời những trang phục rock-chick mang phongcách của Abbey Dawn - nickname hồi nhỏ của Avril. Với một loạt trangphục nữ tính, quyến rũ mà cá tính nhằm vào các bạn nữ năng động trongmùa tựu trường. Avril cho biết: “Sản phẩm của tôi phần lớn là gam hồng, đen, tímvà hoa văn ngôi sao, da ngựa... Đó là những gam màu rất rock, vui nhộn,trẻ trung và cá tính. Chúng đơn giản là những trang phục tôi mặc hàngngày hay đi diễn.” Trang phục của Abbey Dawn có giá từ 24-48$. Áo phông, áo nỉ, ba lỗ và hoodies T-shirt, pull, ba lỗ và áo khoác… - những chiếc áo tinh nghịch đã gắn bó với Avril từ khi mới nổi tiếng, do đó chúng là mặt hàng phổ biến nhất của Abbey Dawn. Style của Avril thiên về sự năng động, thoải mái nên chất liệu của áo thường là cotton hoặc nỉ. Áo Abbey Dawn có bốn màu chủ đạo đó là hồng, đe, trắng, tím. Hình vẽ trên áo được chính tay Avril phác thảo, thiết kế nên chúng mang phong cách của một rock-chick, ngổ ngáo và tinh nghịch. Áo ba lỗ được Avril diện cả trong ngày thường và những show diễn của mình. Kể cả trong mùa lạnh, chúng cũng có thể lót trong một cách rất thời trang, do đó áo ba lỗ của Abbey Dawn thường có màu sắc nổi bật, thể hiện phong cách nữ tính, quyến rũ của Avril trong thời gian gần đây. Sở hữu hàng ngàn chiếc áo áo khoác, Avril tự tin khẳng định rằng chúng có thể kết hợp với bất cứ trang phục nào, từ những chiếc áo phông đơn giản đến những bộ đầm dạ tiệc. Chấm bi và kẻ vẫn là hoa văn rất được yêu thích.
Quần, váy Là một rock-chick nổi loạn, gần đây Avril đã thay đổi style quần thụng bằng những chiếc váy ngắn và quần skinny quyến rũ. Những mặt hàng của Abbey Dawn đã thực sự thể hiện được con mắt thẩm mỹ tinh tế. Những chiếc váy Abbey Dawn được thiết kế đơn giản với những đường nếp xếp, nhún điệu đà. Tông màu cũng rất thời trang và dễ mix đồ, đặc biệt, chúng còn được trang trí thêm bằng chiếc thắt lưng nạm đinh rất rock! Quần skinny và quần ngố gắn bó với Avril mọi lúc mọi nơi. Chúng giúp cho đôi chân của cô nàng trông thanh mảnh và dài thêm. “Tôi chắc chắn rằng những khách hàng trong độ tuổi 20 sẽ yêu thích chúng bởi chúng thật quyến rũ” – Avril chào hàng. Trang sức, phụ kiện Khó ai có thể quên những chiếc vòng tay lỉnh kỉnh, đa dạng sắc màu trên cổ tay của những cô nàng rock-chick. Chúng thể hiện một nét phá cách trong thời trang, kết hợp lộn xộn nhưng kết quả thật tuyệt vời. Bằng những gam màu nổi bật nhưng hài hòa với nhau, Avril đã thiết kế ra những bộ vòng cực kì xì tin. Bộ vòng được thiết kế có nhiều màu, size và kiểu dáng đa dạng. Vòng cổ cũng được bày bán tại Abbey Dawn với những khuôn hình trái tim, ngôi sao... Không như các loại trang sức cao cấp khác, trang sức của Abbey Dawn hướng tới mọi tầng lớp nên có giá cả phải chăng. Những mẫu thiết kế dây móc hoặc dây dạng chùm khiến chúng trông thật nổi bật trên chiếc cổ xinh xắn của bạn. Khuyên tai Với chủ yếu là những mẫu khuyên tai to cùng hoạ tiết ngôi sao đã được Avril lấy làm logo cho mình từ những ngày đầu khởi nghiệp (vì có hình dáng tương tự chữ A trong tên mình) do đó, chúng đựơc sử dụng triệt để trong những đôi hoa tai Abbey Dawn. Tia chớp, xương sống...cũng là những mẫu hoa tai cực kì độc đáo! Source: kenh14.vn
|
|
|
|
Sponsored content
|
Tiêu đề: Re: [Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne |
|
|
|
|
|
|
|
[Profile] Sự nghiệp của Avril Lavigne |
|
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang |
|
|
Permissions in this forum: |
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|
|
|
|
Latest topics | » Pornos Xxx Colejialas Uniformes Minifaldas Para DescargarThu Mar 20, 2014 12:32 am by ordwalaur » Egis Reversible Game SaveFri Feb 14, 2014 3:31 pm by vereanoki » Eam Standard Full VersionFri Feb 14, 2014 1:49 pm by vereanoki » Về tên miền (Domain) của 4rum.Fri Jul 27, 2012 8:56 pm by w3blake3w » Sâu ^^'Tue Dec 20, 2011 5:03 pm by AQ» Mọi người đâu?Tue Dec 20, 2011 4:27 pm by AQ» Giá bán và các hình thức bán LBHK Thiên MônSat Jun 25, 2011 8:47 am by XemDjjjj » Bán LBHK trong game vào 24/06/2011Sat Jun 25, 2011 8:46 am by XemDjjjj » 25/06: Những cập nhật mới nhấtSat Jun 25, 2011 8:45 am by XemDjjjj » Chạy tập tin auto update lên phiên bản 7.0.1Sat Jun 25, 2011 8:44 am by XemDjjjj » Sử dụng thêm 2.000 Sinh tố trái câySat Jun 25, 2011 8:43 am by XemDjjjj » Một tuần rộn ràng của VLTK IISat Jun 25, 2011 8:41 am by XemDjjjj » When you're gone & Nobody's homeThu Sep 23, 2010 10:59 pm by AQ» [NEWS] Tất cả về 4th Album phát hành năm 2010Sat Apr 03, 2010 10:17 pm by ..:::AvrIL_PrINcEss:::.. » [Spam] Topic chỉ dành cho ai ghét Hannah Montana !!!Fri Apr 02, 2010 10:11 pm by ..:::AvrIL_PrINcEss:::.. |
feeds | |
|